Trịnh Xuân Thanh cùng đồng phạm tham ô hơn 13 tỷ đồng ra sao?
Câu kết lập, ký 4 hợp đồng khống
Cáo trạng của Viện KSND Tối cao xác định rõ hành vi tham ô tài sản của Trịnh Xuân Thanh và các bị cáo khác trong việc thực hiện Dự án Nhà máy Nhiệt điện (NMNĐ) Vũng Áng 1, NMNĐ Quảng Trạch 1.
Bị cáo Trịnh Xuân Thanh trả lời HĐXX TAND thành phố Hà Nội. (Ảnh: TTXVN) |
Theo cáo trạng, tháng 7/2011, Nguyễn Anh Minh, Phó Tổng Giám đốc Tổng Công ty CP Xây lắp dầu khí Việt Nam - PVC, được phân công phụ trách Ban điều hành dự án (ĐHDA) Vũng Áng - Quảng Trạch. Trịnh Xuân Thanh và Vũ Đức Thuận giao cho Nguyễn Anh Minh chỉ đạo Lương Văn Hòa, Giám đốc Ban ĐHDA, chuyển tiền để Trịnh Xuân Thanh, Vũ Đức Thuận, Nguyễn Anh Minh sử dụng.
Việc chuyển tiền được Lương Văn Hòa thực hiện thông qua đầu mối tiếp nhận là Bùi Mạnh Hiển quản lý chi theo chỉ đạo của Trịnh Xuân Thanh và Vũ Đức Thuận, hoặc đưa cho Nguyễn Anh Minh.
Từ ngày 28/9/2011 đến ngày 23/2/2012, Lương Văn Hòa đã cùng cấp dưới gồm: Nguyễn Đức Hưng, Nguyễn Lý Hải, Lý Xuân Khánh hợp thức hồ sơ thiết kế, dự toán, thi công, nghiệm thu, thanh quyết toán 4 hạng mục phụ trợ, chuyển cho Nguyễn Anh Minh để Minh chỉ đạo các phòng ban của Tổng Công ty hợp thức thủ tục phê duyệt.
Sau đó, Lương Văn Hòa câu kết với Lê Thị Anh Hoa, Nguyễn Thành Quỳnh (Giám đốc và Kế toán trưởng Công ty TNHH MTV Quỳnh Hoa) lập, ký 4 hợp đồng khống có nội dung: Ban điều hành thuê Công ty TNHH MTV Quỳnh Hoa thi công 3 hạng mục phụ trợ của dự án Nhà máy nhiệt điện Vũng Áng 1 và một hạng mục phụ trợ của dự án Nhà máy nhiệt điện Quảng Trạch 1, để rút tổng số 13.066.262.471 đồng từ Ban điều hành.
Cơ quan tố tụng xác định, trước khi hợp thức hồ sơ, do có mối quan hệ quen biết từ trước, Lương Văn Hòa đã gặp và thỏa thuận với Nguyễn Thành Quỳnh và Lê Thị Anh Hoa cùng với Lương Văn Hòa ký hợp đồng khống có nội dung Ban điều hành thuê Công ty TNHH MTV Quỳnh Hoa thi công các hạng mục phụ trợ của Dự án NMNĐ Vũng Áng 1 và dự án NMNĐ Quảng Trạch 1.
Thực tế, trong 4 hạng mục này có 3 hạng mục đã được đơn vị khác nhận thi công theo hợp đồng đã ký với PVC. Riêng hạng mục khu nhà ăn thuộc khu nhà ở công nhân, tuy đã được PVC phê duyệt, nhưng sau đó PVC không tổ chức thi công vì không có nhu cầu sử dụng.
Sau khi lựa chọn hạng mục, Lương Văn Hòa đã cùng với Nguyễn Đức Hưng, Nguyễn Lý Hải và Lê Xuân Khánh cùng cấp dưới là Lê Văn Khắc, Nguyễn Thị Hường, Trần Văn Thuân, Nguyễn Bảo Khánh, Thân Đình Dũng, Bùi Khắc Hải, Nguyễn Thị Hồng Thắm soạn thảo, ký trên các tài liệu thiết kế, dự toán, thi công, nghiệm thu, thanh quyết toán trong các bộ hồ sơ hợp thức.
Trên cơ sở hồ sơ thiết kế, dự toán các hạng mục do Lương Văn Hòa hợp thức và trình lên PVC, Nguyễn Anh Minh chỉ đạo các lãnh đạo, chuyên viên Ban Kinh tế đấu thầu và Ban Kỹ thuật an toàn của PVC là Nguyễn Văn Phiên, Đậu Thị Vân, Nguyễn Thị Bích Ngọc, Dương Sơn Hào, Trịnh Thái Nguyên lập, ký hợp thức các văn bản, thủ tục liên quan đến thẩm định thiết kế, thẩm định dự toán, Nguyễn Anh Minh ký Quyết định phê duyệt thiết kế, dự toán. Các thủ tục còn lại, Nguyễn Thành Quỳnh và Lê Thị Anh Hoa ký các thủ tục hợp thức việc thi công, nghiệm thu, hoàn công, quyết toán hạng mục và ký hợp đồng, hóa đơn khống.
“Chia” nhau hơn 13 tỷ đồng
Cuối năm 2012, do sợ bị phát hiện việc lập khống hồ sơ thanh toán hạng mục nhà ăn công nhân thuộc khu nhà ở công nhân, Lương Văn Hòa đã bỏ tiền cá nhân chỉ đạo Nguyễn Lý Hải thuê người thi công hạng mục Khu nhà ăn và thông qua Nguyễn Đức Hưng nhờ Nguyễn Văn Biên, Giám đốc Công ty Tiến Minh, ký Hợp đồng về việc mua thanh lý khu nhà ăn của công nhân với số tiền 554.400.000 đồng nhằm thể hiện việc Lương Văn Hòa có tổ chức thi công hạng mục này.
Các bị cáo tại phiên xử sáng 8/1. (Ảnh: TTXVN) |
Số tiền Công ty Tiến Minh nộp vào tài khoản Ban điều hành do Lương Văn Hòa lấy đưa cho Nguyễn Văn Biên nộp. Việc Lương Văn Hòa thông qua hợp đồng thanh lý Khu nhà ăn với Công ty Tiến Minh để trả lại tiền diễn ra trước khi hành vi phạm tội bị phát hiện.
Cuối năm 2013, khi rà soát lại hồ sơ các hạng mục khống nêu trên, Nguyễn Anh Minh thấy việc ký Quyết định phê duyệt thiết kế, dự toán hạng mục Đường phục vụ thi công khu nhà điều hành Ban Quản lý dự án và Nhà làm việc Ban điều hành Tổng thầu tại dự án NMNĐ Quảng Trạch 1 nhưng chưa xin ý kiến HĐQT là sai quy định.
Để hợp thức hồ sơ xin ý kiến HĐQT, Nguyễn Anh Minh cùng các bị can khác lập các tờ trình về việc phê duyệt chủ trương xây dựng hạng mục đường phục vụ thi công khu nhà điều hành Ban QLDA và nhà làm việc Ban điều hành Tổng thầu tại Dự án NMNĐ Quảng Trạch 1. Các tờ trình này có ý kiến “Đồng ý” của Trịnh Xuân Thanh và Vũ Đức Thuận.
Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ hồ sơ bản chính 4 bộ hợp đồng xây dựng khống nêu trên; thu giữ 2 bản Phiếu lấy ý kiến về việc phê duyệt chủ trương xây dựng hạng mục Đường phục vụ thi công khu nhà điều hành Ban QLDA và Nhà làm việc Ban điều hành Tổng thầu Dự án Nhà máy nhiệt điện Quảng Trạch 1 đề ngày 14/12/2011.
Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định chữ ký và chữ viết trên các văn bản nêu trên, xác định đúng là chữ ký và chữ viết của Trịnh Xuân Thanh và Vũ Đức Thuận.
Như vậy, có cơ sở để xác định Trịnh Xuân Thanh cùng với Vũ Đức Thuận, Nguyễn Anh Minh đã thống nhất đề ra chủ trương và chỉ đạo Lương Văn Hòa, Trưởng Ban ĐHDA Vũng Áng - Quảng Trạch, lập khống hồ sơ, chứng từ thi công 4 hạng mục phục vụ thi công các hạng mục chính của Dự án Vũng Áng - Quảng Trạch để chiếm đoạt 13.066.262.471 đồng do PVC có trách nhiệm quản lý.
Số tiền trên, Trịnh Xuân Thanh chiếm hưởng 4 tỷ đồng, Vũ Đức Thuận chiếm hưởng 800 triệu đồng, Nguyễn Anh Minh chiếm hưởng 3.648.240.000 đồng, Bùi Mạnh Hiển chiếm hưởng 400 triệu đồng, Lương Văn Hòa chiếm hưởng 757.260.000 đồng, Lê Thị Anh Hoa và Nguyễn Thành Quỳnh chiếm hưởng 1.960.762.471 đồng (trong đó sử dụng 1.198.322.407 để nộp thuế GTGT). Số tiền 1,5 tỷ đồng còn lại Trịnh Xuân Thanh, Vũ Đức Thuận, Nguyễn Anh Minh và Bùi Mạnh Hiển chiếm hưởng sử dụng chung.
Cơ quan điều tra đã tiến hành sao kê dữ liệu tài khoản cá nhân của Trần Thị Thu Hà - nhân viên Văn phòng PVC, Lương Thị Khánh Hà - Thủ quỹ PVC, Lương Văn Hòa - Giám đốc Ban ĐHDA, tài khoản của Công ty TNHH MTV Quỳnh Hoa mở tại các ngân hàng trong thời gian năm 2011, 2012, kết quả đã xác định việc chuyển, nhận tiền và rút tiền từ các tài khoản, quỹ của Ban điều hành.