Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng (Phần 6)
BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2011 – 2015
VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI 5 NĂM 2016 – 2020
Phần thứ nhất
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIÊM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TỄ - XÃ HỘI 5 NĂM 2011 – 2015
Trước Đại hội Đảng lần thứ XI, hầu hết các nước trên thế giới thực hiện chính sách hỗ trợ tăng trưởng nhằm đối phó với khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Nhiều dự báo cho rằng khủng hoảng có thể sớm kết thúc và triển vọng kinh tế thế giới sẽ phục hồi sau năm 2010. Trong nước, chúng ta thực hiện đồng bộ hóa nhiều giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có chính sách kích cầu, hỗ trợ tăng trưởng. Giai đoạn 2006 – 2010 tăng trưởng kinh tế đạt 7%/ năm. Nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào Nhóm các nước đang phát triển có thu nhập trung bình và hoàn thành nhiều Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. Trên cơ sở kết quả đạt được của giai đoạn 2006 – 2010 và do chưa lường hết được những khó khăn, thách thức, nên nhiều chỉ tiêu về kinh tế - xã hội đề ra cho 5 năm 2011 – 2015 là khá cao.
Sau Đại hội Đảng, tình hình thế giới diễn biến phức tạp. Kinh tế phục hồi chậm hơn dự báo. Nhiều nước tăng cường bảo hộ thương mại và sản xuất. Khủng hoảng nợ công diễn ra trầm trọng hơn ở nhiều quốc gia.
Các nước lớn cạnh tranh quyết liệt dành ảnh hưởng trong khu vực. Đối với nước ta, tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu làm cho mặt trái của chính sách kích cầu và những yếu kém nội tại của nền kinh tế bộc lộ nặng nề hơn. Lạm phát tăng cao, kinh tế vĩ mô không ổn định, sản suất kinh doanh và đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó, thiên tai, dịch bệnh gây thiệt hại lớn và yêu cầu bảo đảm an sinh xã hội, tăng cường quốc phòng an ninh ngày càng cao.
Trước diễn biến mới của tình hình, Trung ương Đảng, Bộ Chính trị đã quyết định điều chỉnh mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; đảm bảo an sinh xã hội, cải thiện đời sống nhân dân; duy trì tăng trưởng ở mức hợp lí gắn với đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng; đảm bảo quốc phòng, an ninh và ổn định chính trị, xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế; tạo tiền đề vững chắc cho tăng trưởng cao hơn ở những năm cuối của kế hoạch 5 năm.
Tình hình phức tạp, căng thẳng ở biển Đông đe dọa nghiêm trọng hòa bình, ổn định và tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Chúng ta kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền và thực hiện các giải pháp phù hợp để giữ vững hòa bình và quan hệ hữu nghị với các nước. Đồng thời nỗ lực phấn đấu để đạt kết quả cao nhất, các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội đã đề ra.
I. CÁC KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
1. Lạm phát được kiểm soát, kinh tế vĩ mô gần ổn định, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm. Tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm nhanh, từ 18,13% năm 2011 xuống còn 5% vào năm 2015. Xuất khẩu tăng khá cao, cán cân thương mại được cải thiện. Dự trữ ngoại hối tăng, tỷ giá cơ bản ổn định. Niềm tin vào đồng tiền Việt Nam tăng lên. Đẩy mạnh chống thất thu, tiết kiệm chi ngân sách nhà nước, ưu tiên chi cho bảo đảm an sinh xã hội và phát triển con người. Nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia trong giới hạn an toàn theo quy định của pháp luật. Quản lý thị trường được tăng cường; đảm bảo cân đối cung cấp các mặt hàng thiết yếu; đẩy mạnh phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại.
2. Tăng trưởng được duy trì ở mức độ hợp lý và từ năm 2013 dần phục hồi, năm sau cao hơn năm trước. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân 5,82%/ năm. Sản xuất công nghiệp từng bước phục hồi; khu vực nông nghiệp phát triển ổn định; khu vực dịch vụ tăng khá. Quy mô và tiềm lực của nền kinh tế tăng, GDP theo giá hiện hành năm 2015 khoảng 204 tỷ USD, bình quân đầu người khoảng 2.200 USD. Chất lượng tăng trưởng được nâng lên; đóng góp của khoa học, công nghệ tăng; năng suất lao động tăng bình quân khoảng 3,8%/năm; vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả hơn.
3. Ba đột phá chiến lược được tập trung thực hiện và đạt kết quả tích cực. Thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định cụ thể hơn, từng bước thực thi có hiệu quả và tạo được sự đồng thuận trong xã hội. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường được vận hành khá đồng bộ và gắn kết hiệu quả hơn với thị trường ngoài nước. Thực hiện giá thị trường theo lộ trình đối với xăng dầu, than, điện, nước, dịch vụ giáo dục, y tế… gắn với hỗ trợ các đối tượng chính sách, hộ nghèo, vùng khó khăn. Môi trường đầu tư, kinh doanh và cải thiện, cạnh tranh minh bạch, bình đẳng hơn. Năng lực cạnh tranh có bước được nâng lên.
Phát triển nguồn nhân lực và khoa học - công nghệ đạt được những kết quả tích cực. Mạng lưới giáo dục, đào tạo được mở rộng, quy mô và chất lượng được nâng lên. Nội dung, phương pháp giáo dục, đào tạo, thi cử và kiểm định chất lượng có đổi mới. Cơ cấu đào tạo hợp lý hơn. Giáo dục, đào tạo vùng khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số được chú trọng. Xã hội hóa giáo dục, đào tạo được đẩy mạnh. Dạy nghề cho lao động nông thôn được quan tâm. Tiềm lực khoa học, công nghệ được tăng cường. Ứng dụng khoa học và đổi mới công nghệ có bước tiến bộ, nhất là trong các lĩnh vực nông nghiệp, xây dựng, y tế, thông tin truyền thông…
Huy động các nguồn lực đầu tư, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đạt kết quả quan trọng, tạo được nhiều chuyển biến. Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, năng lượng, thủy lợi, đô thị, y tế, giáo dục… được tập trung đầu tư. Nhiều công trình quan trọng, thiết yếu được đưa vào sử dụng, tạo diện mạo mới cho đất nước, góp phần tích cực phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh.
4. Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt được kết quả bước đầu. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực: tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP tăng, đặt trên 83%. Đã triển khai thực hiện đề án cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng chiều sâu, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh.
Đổi mới cơ chế phân bổ vốn đầu tư công theo kế hoạch trung hạn, tập trung hơn vào các lĩnh vực quan trọng, thiết yếu. Tỷ trọng vốn đầu tư ngoài nhà nước tăng lên. Hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý đầu tư, tăng cường trách nhiệm của địa phương và chủ đầu tư. Khẩn trương cơ cấu lại tổ chức tín dụng; giám sát chặt chẽ và sắp xếp lại các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém; tăng cường kiểm tra, thanh tra, bảo đảm an toàn hệ thống. Nợ xấu giảm dần, chất lượng tín dụng từng bước được cải thiện. Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước đạt được những kết quả tích cực; cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư ngoài ngành theo cơ chế thị trường được đẩy mạnh; tập trung hơn vào những lĩnh vực then chốt, quốc phòng, an ninh, cung ứng hàng hóa và dịch vụ công thiết yếu; năng lực quản trị, tiềm lực tài chính và hiệu quả sản xuất kinh doanh được nâng lên.
Tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới đạt kết quả tích cực. Tập trung tổ chức lại sản xuất, đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi, ứng dụng khoa học, công nghệ và xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa quy mô lớn, liên kết sản xuất với chế biến, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm. Một số mặt hàng xuất khẩu đạt thứ hạng cao trên thế giới. Đến hết năm 2015 có khoảng 1.800 xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới, chiếm 20% tổng số xã.
Triển khai các đề án tái cơ cấu ngành công thương và xây dựng. Tập trung cơ cấu lại ngành, sản phẩm theo hướng nâng cao giá trị quốc gia, giá trị gia tăng, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo tăng, tỷ trọng công nghiệp khai khoáng giảm. Chú trọng phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, có hàm lượng khoa học, công nghệ cao như công nghệ thông tin, truyền thông, logistics, hàng không, tài chính, ngân hàng, du lịch, thương mại điện tử… Quy hoạch phát triển ngành, vùng, sản phẩm được rà soát, điều chỉnh phù hợp hơn với kinh tế thị trường; hỗ trợ phát triển vùng khó khăn, đầu tư phát triển các ngành kinh tế biển, gắn phát triển kinh tế biển với bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
5. Phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội đạt được những kết quả tích cực. An sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, phúc lợi xã hội và đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Trong bối cảnh kinh tế có nhiều khó khăn, đã tăng thêm nguồn lực thực hiện các chính sách xã hội, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số và vùng khó khăn. Thực hiện đồng bộ nhiều chính sách đối với người có công, giảm nghèo, trợ giúp xã hội, tạo việc làm, đào tạo nghề, hỗ trợ sản xuất, hỗ trợ tín dụng cho học sinh, sinh viên nghèo. Trong 5 năm, tạo việc làm cho khoảng 7,8 triệu người. Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2%/ năm, riêng các huyện nghèo giảm 4% / năm. Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng. Làm tốt công tác y tế dự phòng, không để dịch bệnh lớn xảy ra. Chất lượng khám, chữa bệnh được nâng lên. Đã tích cực triển khai nhiều giải pháp giảm quá tải bệnh viện và đạt được kết quả bước đầu. Quản lý thuốc chữa bệnh và vệ sinh an toàn thực phẩm được chú trọng. Các lĩnh vực văn hóa, thông tin truyền thông, bình đẳng giới, chăm sóc và bảo vệ bà mẹ, trẻ em, người cao tuổi, thể dục thể thao… được quan tâm. Nhiều di sản văn hóa vật thể, phi vật thể được công nhận là di sản văn hóa quốc gia và thế giới. Chính sách dân tộc được quan tâm; tự do tôn giáo, tín ngưỡng được bảo đảm.
6. Quản lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu được tăng cường. Việc quản lý, khai thác, sử dụng đất đai, nguồn nước, khoáng sản chặt chẽ và hiệu quả hơn. Công tác điều tra cơ bản, đánh giá tiềm năng, trữ lượng, định giá tài nguyên có bước tiến bộ; khai thác, sử dụng phù hợp hơn theo cơ chế thị trường. Các biện pháp bảo vệ môi trường, phòng ngừa và sử lý cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng được tích cực thực hiện. Phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai được chú trọng, đạt nhiều kết quả. Nhiều dự án ứng phó với biến đổi khí hậu, kết hợp phòng, chống thiên tai được triển khai. Quan tâm bảo vệ và phát triển rừng; tỷ lệ che phủ rừng tăng lên, đạt khoảng 42% vào năm 2015.
7. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được nâng lên; cải cách hành chính đạt được những kết quả tích cực; công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí được chú trọng. Hệ thống pháp luật, chính sách được tiếp tục hoàn thiện. Chất lượng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch có bước được nâng lên. Kiện toàn tổ chức bộ máy, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu và cán bộ, công chức. Tập trung cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, tạo thuận lợi, giảm chi phí, tiết kiệm thời gian cho người dân và doanh nghiệp. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước. Thể chế, tổ chức bộ máy phòng, chống tham nhũng, lãng phí tiếp tục được hoàn thiện. Tăng cường kiểm tra, thanh tra và xử lí nghiêm các vi phạm. Nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nai, tố cáo.
8. Quốc phòng, anh ninh được tăng cường, chủ quyền quốc gia được giữ vững. Tiềm lực quốc phòng, an ninh tăng lên. Kiên quyết đấu tranh bằng các giải pháp phù hợp để bảo vệ chủ quyền quốc gia và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển kinh tế - xã hội. Thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân được củng cố và gắn kết chặt chẽ hơn. Kết hợp tốt hơn giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh. An ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm. Công tác phòng, chống tội phạm và đảm bảo an toàn giao thông, phòng, chống cháy nổ, an toàn lao động được tập trung chỉ đạo, đạt được những kết quả tích cực.
9. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được chủ động đẩy mạnh, đạt nhiều kết quả tích cực và đã góp phần quan trọng tạo môi trường, điều kiện thuận lợi và sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ đất nước. Kiên định trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của đất nước. Tăng cường hợp tác và đối thoại chiến lược với nhiều đối tác, đưa quan hệ hợp tác với các đối tác đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả hơn. Đã chủ động tham gia tích cực, có trách nghiệm trong các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế. Tích cực triển khai các hiệp định, thỏa thuận thương mại đã có và đàm phán, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới để mở rộng, đa dạng hóa thị trường và thúc đẩy phát triển. Vị thế của nước ta trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên.
II. CÁC HẠN CHẾ, YẾU KÉM:
1. Kinh tế vĩ mô ổn định chưa vững chắc. Việc kiểm soát lạm phát và bảo đảm cân đối lớn của nền kinh tế chưa thực sự bền vững. Cân đối ngân sách còn khó khăn; cơ cấu ngân sách chưa thực sự phù hợp, chi thường xuyên tăng nhanh; bội chi ngân sách còn cao, chưa đạt mục tiêu giảm xuống còn 4,5% GDP. Tuy vẫn bảo đảm trong giới hạn an toàn theo quy định nhưng nợ công tăng nhanh, áp lực trả nợ lớn; sử dụng vốn vay ở một số dự án kém hiệu quả. Chất lượng tín dụng chưa cao, xử lý nợ xấu còn chậm. Thị trường vốn, chứng khoán, bất động sản phát triển chưa đồng bộ, phục hồi chậm và còn tiềm ẩn rủi ro.
2. Kinh tế phục hồi còn chậm, tăng trưởng chưa đạt chỉ tiêu đề ra; chất lượng tăng trưởng một số mặt còn thấp. Khoảng cách phát triển so với các nước trong khu vực còn lớn. Sản xuất nông nghiệp hiệu quả chưa cao; công nghiệp và dịch vụ tăng thấp hơn giai đoạn trước. Tổng cầu tăng chậm, sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm còn nhiều khó khăn. Doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động còn lớn; nhiều doanh nghiệp khó tiếp cận vốn tín dụng , hiệu quả hoạt động chưa cao. Năng lực cạnh tranh quốc gia chưa được cải thiện nhiều, nhất là về thể chế kinh tế, kết cấu hạ tầng, đổi mới công nghệ.
3. Thực hiện hiện các đột phá chiến lược và tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa đáp ứng yêu cầu, chưa đạt nhiều tiêu chí dự kiến. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, chưa thật đồng bộ, thông suốt; chưa thực sự là động lực tạo đột phá để huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nâng cao năng lực cạnh tranh và cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều quy định trong hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách và quản lý, điều hành chưa tuân thủ đầy đủ quy luật của kinh tế thị trường, nhất là trong phân bổ nguồn lực, quản lý giá hàng hóa, dịch vụ công thiết yếu và chưa bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Chất lượng cải thiện nguồn lực còn chậm; thiếu lao động chất lượng cao. Khoa học công nghệ chưa thật sự trở thành động lực để nâng cao chất lượng lao động, năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển, chưa đồng bộ, hiệu quả kết nối và chất lượng chưa cao.
4. Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm. Mô hình tăng trưởng còn chưa đủ rõ; năng suất lao động còn thấp, phát triển kinh tế vẫn phụ thuộc nhiều vào vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp. Sản xuất kinh doanh chưa gắn được nhiều với mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Xuất khẩu thô, xuất khẩu với hình thức gia công còn lớn; hàm lượng giá trị quốc gia và giá trị gia tăng còn thấp. Đổi mới công nghệ còn chậm; phát triển công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp công nghệ cao còn hạn chế. Tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo thấp, chỉ đạt khoảng 18% GDP, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới còn chậm và kết quả đạt được chưa đồng đều. Cơ cấu lại các tổ chức tín dụng chưa đáp ứng yêu cầu. Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước chưa đạt tiến bộ, tỉ lệ vốn được cổ phần hóa và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước còn thấp.
5. Phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội nhiều mặt còn hạn chế. Đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn. Khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư còn lớn. Thị trường lao động chưa thật sự thông suốt, dịch chuyển lao động còn khó khăn. Số người thiếu việc làm và việc làm không ổn định còn nhiều, nhất là ở khu vực nông thôn. Một số chính sách về an sinh xã hội, giảm nghèo còn chồng chéo, kém hiệu quả và chưa khuyến khích người nghèo vươn lên thoát nghèo. Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao. Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân nhiều mặt còn hạn chế. Quản lý nhà nước về thuốc chữa bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhiều yếu kém. Xã hội hóa lĩnh vực văn hóa còn chậm, hiệu quả chưa cao. Nhiều biểu hiện xấu về đạo đức, lối sống gây bức xúc trong nhân dân. Tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp. Quản lý nhà nước về tôn giáo, tín ngưỡng có mặt hạn chế.
6. Quản lý nhà nước về tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu nhiều mặt còn hạn chế; pháp luật, chính sách thiếu đồng bộ; thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm chưa nghiêm. Việc giao quyền quản lý, khai thác, sử dụng đất đai, khoáng sản, rừng, nguồn nước chưa phù hợp với kinh tế thị trường và hiệu quả chưa cao. Tình trạng ô nhiễm môi trường, nhất là tại các làng nghề, lưu vực sông còn chậm được cải thiện. Nguồn lực và năng lực phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu chưa đáp ứng được yêu cầu. Tình trạng ngập lụt ở một số thành phố lớn chậm được khắc phục. Sạt lở ven biển, ven sông và xâm phạm mặn diễn biến ngày càng phức tạp. Sử dụng năng lượng tái tạo còn ít.
7. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước nhiều mặt còn hạn chế. Cải cách hành chính một số mặt còn chậm. Năng lực xây dựng và thực thi luật pháp, cơ chế, chính sách chưa cao; một số văn bản ban hành còn chậm, mâu thuẫn, không phù hợp với thực tiễn. Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh; chức năng, nhiệm vụ nhiều cơ quan, đơn vị còn chồng chéo, chưa đủ cụ thể, chưa rõ thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương chậm đổi mới, chưa phù hợp với đặc điểm đô thị và hải đảo. Năng lực, phẩm chất, ý thức kỷ luật của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa đáp ứng yêu cầu. Thủ tục hành chính trong nhiều lĩnh vực còn phiền hà, gây bức xúc cho người dân, doanh nghiệp. Giám sát, phản biện xã hội đối với xây dựng và thực thi luật pháp, chính sách hiệu quả chưa cao. Công tác phòng, chống tham nhũng chưa đạt yêu cầu đề ra là ngăn chặn, từng bước đẩy lùi. Việc giải quyết khiều nại, tố cáo hiệu quả chưa cao.
8. Sự gắn kết giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh chưa thật chặt chẽ. Chưa có cơ chế, chính sách để phát triển mạnh mô hình công nghiệp lưỡng dụng. An ninh trật tự và an toàn xã hội trên một số địa bàn vẫn còn phức tạp. Công tác bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, an ninh mạng còn nhiều bất cập. Tai nạn giao thông vẫn còn nghiêm trọng.
9. Công tác đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có mặt chưa thật chủ động và hiệu quả chưa cao. Việc chuẩn bị các điều kiện để tận dụng cơ hội trong hội nhập còn bất cập. Năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức, doanh nhân chưa đáp ứng kịp yêu cầu hội nhập. Sự gắn kết giữa hội nhập kinh tế quốc tế với quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội, ngoại giao nhân dân có mặt còn hạn chế.
Những hạn chế, yếu kém trên đây do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nguyên nhân chủ quan chủ yếu là:
- Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là về vai trò của Nhà nước, kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư nhân, thị trường quyền sử dụng đất, quản lý giá cả, phân bổ nguồn lực, cơ chế cung ứng dịch vụ công, giá dịch vụ trong giáo dục, y tế... chưa đủ rõ và chưa thống nhất. Vì vậy, việc xây dựng pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch và trong chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội nhiều mặt còn lúng túng, thiếu nhất quán, chưa thật phù hợp với kinh tế thị trường, hiệu quả chưa cao, chưa tạo được động lực mạnh mẽ để huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển.
- Tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng và luật pháp, chính sách của Nhà nước nhiều mặt còn hạn chế. Việc thể chế hóa thành luật pháp, cơ chế, chính sách trong nhiều trường hợp còn chậm, chất lượng thấp, tính khả thi chưa cao. Chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc thực hiện và sơ kết, tổng kết thực tiễn. Chưa thay thế được kịp thời những cán bộ không đủ phẩm chất, năng lực trong triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
- Phương thức lãnh đạo, quản lý kinh tế - xã hội chưa thật phù hợp, hiệu lực, hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển trong kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Khả năng phân tích, dự báo còn bất cập. Phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức còn nhiều mặt hạn chế. Kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm.
Nhìn tổng quát lại, trong 5 năm qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức rất lớn nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị và toàn dân, toàn quân, kinh tế - xã hội nước ta đã đạt được những thành quả quan trọng. Lạm phát được kiểm soát, kinh tế vĩ mô dần ổn định. Tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý. Các đột phá chiến lược và cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt được kết quả bước đầu. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện. Nguồn nhân lực và khoa học, công nghệ có bước phát triển. Đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đạt kết quả quan trọng. Chất lượng tăng trưởng nhiều mặt được cải thiện. Tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên. Phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội cơ bản được bảo đảm. Phúc lợi xã hội và đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Cải cách hành chính có bước tiến bộ. Quốc phòng, an ninh được tăng cường. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được chủ động đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả. Khối đại đoàn kết toàn dân được tăng cường. Độc lập, chủ quyền quốc gia được giữ vững. Chính trị - xã hội ổn định. Vị thế nước ta trên đường quốc tế được nâng lên. Tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội tốt hơn trong giai đoạn tới.
Tuy nhiên, kinh tế - xã hội phát triển vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và còn nhiều khó khăn, hạn chế. Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chưa đạt kế hoạch. Việc tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa đáp ứng yêu cầu. Kinh tế vĩ mô ổn định chưa vững chắc. Kinh tế phục hồi còn chậm. Chất lượng tăng trưởng một số mặt còn thấp. Sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Môi trường kinh doanh còn nhiều hạn chế. Thực hiện ba đột phá chiến lược và cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm. Thể chế kinh tế thị trường kinh tế xã hội chủ nghĩa vẫn còn vướng mắc, chưa thực sự trở thành động lực mạnh mẽ cho phát triển kinh tế - xã hội. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế so với nhiều nước trong khu vực chậm được thu hẹp. Văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường nhiều mặt còn yếu kém, chậm khắc phục. Khoảng cách giàu – nghèo còn lớn. Bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh trật tự, an toàn xã hội còn nhiều khó khăn thách thức. Chưa khai thác thật tốt những cơ hội và điều kiện thuận lợi trong hội nhập quốc tế. Hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, quản lý kinh tế - xã hội nhiều mặt còn hạn chế.
(Còn nữa)
Thainguyentv.vn