Đoàn kết trong Đảng - Giá trị thực tiễn trong bản Di chúc
Toàn cảnh Lễ khai mạc Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. (Ảnh: TTXVN)
Bài viết “Giá trị thực tiễn Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới” của phó giáo sư, tiến sỹ Lại Quốc Khánh, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội đi sâu nghiên cứu một khía cạnh trong những giá trị thực tiễn của Di chúc trong thời kỳ Đổi mới, đó là giá trị của vấn đề đoàn kết trong Đảng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt nhấn mạnh trong Di chúc.
TTXVN xin trân trọng giới thiệu bài viết:
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh nói đến “vài việc,” trong đó, trước hết chính là “nói về Đảng.” Khi nói về Đảng, vấn đề đầu tiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đó là vấn đề “đoàn kết.” Vấn đề đoàn kết trong Đảng được trở đi trở lại nhiều lần trong Di chúc.
Trong những “điều mong muốn cuối cùng,” Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nói đến vấn đề đoàn kết trong Đảng. Như vậy, có thể thấy rõ rằng, vấn đề đoàn kết trong Đảng chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong những suy tư, trăn trở của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không ít lần trực tiếp khẳng định tầm quan trọng của vấn đề này, chẳng hạn như trong Lời bế mạc Hội nghị lần thứ bảy mở rộng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (nói ngày 12/3/1955), Người đã chỉ rõ: “Ngày nay, sự đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo.”
Trong Di chúc, vấn đề đoàn kết trong Đảng được Hồ Chí Minh đề cập trên ba phương diện.
Thứ nhất, đoàn kết trong Đảng là một cơ sở của đoàn kết nhân dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, là một cội nguồn làm nên những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Thứ hai, đi qua sự nghiệp cách mạng trường kỳ, đoàn kết đã trở thành một truyền thống cực quý báu của Đảng và của dân ta. Chính vì thế, toàn thể đảng viên từ Trung ương đến các chi bộ đều có trách nhiệm phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Thứ ba, không chỉ cần được bảo vệ, gìn giữ, sự đoàn kết trong Đảng còn cần được không ngừng củng cố và phát triển. Cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết, thống nhất của Đảng là thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau.
Với ba phương diện về giá trị, tầm quan trọng và thái độ, cách thức ứng xử cần có đối với sự đoàn kết trong Đảng như trên, có thể thấy rằng, vấn đề đoàn kết trong Đảng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập một cách toàn diện và sâu sắc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết trong Đảng thể hiện trong Di chúc với tư cách là sự kết tinh tư tưởng của Người về vấn đề này, vốn được hình thành và phát triển suốt trong toàn bộ quá trình người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, thực sự là những chỉ dẫn lý luận có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với thực tiễn xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết trong Đảng mà một phần quan trọng được thể hiện trong Di chúc đã đi vào thực tiễn xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam một cách sinh động, qua đó chứng minh giá trị thực tiễn của nó.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Đại hội của Đổi mới, diễn ra trong bối cảnh thế giới và trong nước có rất nhiều khó khăn, thách thức to lớn. Đổi mới để tồn tại và phát triển đã trở thành một đòi hỏi sống còn mà thực tiễn đặt ra cho Đảng. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, Đại hội đã phân tích những nguyên nhân khách quan dẫn đến tình hình khó khăn của đất nước, đồng thời cũng đã kiên quyết chỉ rõ những nguyên nhân chủ quan dẫn đến tình trạng này. Nguyên nhân chủ quan ấy thể hiện ở 6 sai lầm, khuyết điểm lớn của Đảng và Nhà nước mà Đại hội đã chỉ ra. Đại hội cũng đã rút ra 4 bài học kinh nghiệm, trong đó, bài học thứ tư là về xây dựng Đảng.
Trong bài học về xây dựng Đảng, Báo cáo chính trị tại Đại hội viết: “Trong Đảng, phải tăng cường sự đoàn kết nhất trí, sự thống nhất ý chí và hành động, nêu cao tính tổ chức và tính kỷ luật, lời nói đi đôi với việc làm.” Khi phân tích thực trạng, nguyên nhân của những hạn chế trong xây dựng Đảng, Đại hội đã thẳng thắn chỉ rõ: “Mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, đầu óc địa vị, tư lợi, chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa cục bộ và bệnh quan liêu trong công tác cán bộ đều gây ra những hậu quả xấu đối với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và sự đoàn kết trong Đảng;” “Tình trạng tập trung quan liêu, gia trưởng, độc đoán, không tôn trọng ý kiến cấp dưới, không phát huy trí tuệ tập thể dẫn tới những quyết định sai lầm, làm suy yếu sự đoàn kết trong Đảng;” “Có tình trạng thiếu nhất trí về một số quan điểm và sự thiếu ăn khớp trong phong cách và quan hệ làm việc giữa một số cán bộ lãnh đạo các cấp.
Bệnh cục bộ, địa phương còn nặng. Do đặc điểm của quá trình cách mạng ở nước ta, đội ngũ cán bộ ở mỗi miền, mỗi địa phương có sự hình thành và phát triển khác nhau; sự thông cảm và hiểu biết lẫn nhau chưa đầy đủ. Kẻ thù và những phần tử xấu lợi dụng tình hình này để kích động, gây chia rẽ.”
Để khắc phục, sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm trong xây dựng Đảng, trong lãnh đạo cách mạng, Đại hội đã nêu rõ quyết tâm thực hiện đúng lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc của Người về giữ gìn, củng cố và phát triển sự đoàn kết, nhất trí của Đảng. Với tinh thần như thế, Báo cáo chính trị tại Đại hội đã nêu lên một loạt luận điểm quan trọng về đoàn kết trong Đảng. Cụ thể là:
Một là, đoàn kết nhất trí là “bản chất của Đảng.” Hai là, Đảng có truyền thống đoàn kết nhất trí tốt đẹp, nhờ đó đã đoàn kết được đông đảo nhân dân, đưa sự nghiệp cách mạng đến những thắng lợi vẻ vang. Ba là , tăng cường đoàn kết, nhất trí về chính trị, tư tưởng và tổ chức trên cơ sở hệ tư tưởng Marx-Lenin, đường lối, quan điểm và nguyên tắc tổ chức của Đảng luôn luôn là vấn đề sống còn của cách mạng. Bốn là, đoàn kết trong Đảng không phải là “bằng mặt mà không bằng lòng;” mà là sự đoàn kết được xây dựng trên cơ sở đấu tranh để bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng. Đoàn kết không có nghĩa là không có ý kiến khác nhau.
Thông qua trao đổi, thảo luận sẽ đi đến nhất trí; nếu còn khác nhau, thì quá trình thực tiễn sẽ làm sáng tỏ và đạt đến sự nhất trí cao hơn. Nhưng trong sinh hoạt của Đảng, phải tuân theo nguyên tắc tập trung dân chủ và tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách: thiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tổ chức, cấp dưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục tùng Trung ương. Năm là, phải chăm lo giữ gìn sự đoàn kết trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng, trên cơ sở đó, tăng cường đoàn kết trong toàn Đảng.
Có thể thấy rằng, năm quan điểm trên chính là kết quả của sự vận dụng sáng tạo, sự cụ thể hóa quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết trong Đảng, là một biểu hiện sống động của việc tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết trong Đảng đi vào thực tiễn và chứng thực giá trị của nó trong thực tiễn.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) của Đảng diễn ra trong bối cảnh tình hình kinh tế-xã hội trong nước bước đầu có những chuyển biến theo hướng tích cực; đường lối Đổi mới đúng đắn bắt đầu phát huy tác dụng. Tuy nhiên, tình hình quốc tế lại có nhiều thách thức mới, khó khăn hơn, phức tạp hơn, trong đó tác động tiêu cực nhất là sự khủng hoảng, tiến tới sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu. Trong bối cảnh như thế, để có đủ khả năng vững tay chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam, sự đoàn kết trong Đảng trở thành một đòi hỏi mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1991) đã thẳng thắn đánh giá: bên cạnh những thành tựu, “công tác xây dựng Đảng chuyển biến chậm” và một trong những biểu hiện của thực trạng đó là “tệ cục bộ, địa phương, tình trạng mất đoàn kết đã xảy ra ở một số cơ quan lãnh đạo ngành và địa phương, ảnh hưởng xấu đến công tác lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Tác dụng lãnh đạo của không ít tổ chức đảng và đảng viên giảm sút.”
Nguyên nhân của những thành tựu và yếu kém nói trên được Đại hội xác định là “gắn liền với những ưu điểm và khuyết điểm trong sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.”
Một trong những ưu điểm trong sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư được Đại hội chỉ rõ là: “Sinh hoạt của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư có nhiều tiến bộ về phong cách làm việc dân chủ, tập thể đoàn kết, tự phê bình và phê bình. Đợt tự phê bình và phê bình thẳng thắn, chân tình, có nguyên tắc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban Chấp hành Trung ương trong Hội nghị Trung ương 8 và Hội nghị Trung ương 9 đã góp phần củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Ban Chấp hành Trung ương và trong toàn Đảng.
Gần đây, các cấp ủy đảng đã quan tâm chỉ đạo công tác chỉnh đốn Đảng, làm trong sạch Đảng và nâng cao chất lượng đảng viên. Giải quyết được nhiều vụ tồn đọng của các khoá trước theo tinh thần đổi mới.” Rõ ràng, sự quan tâm đặc biệt mà Đại hội VI dành cho vấn đề đoàn kết trong Đảng đã phát huy những tác dụng tích cực, tạo nên những hiệu quả tốt trong xây dựng Đảng và thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng. Tuy vậy, bên cạnh ưu điểm, ngay ở vấn đề đoàn kết trong Đảng vẫn còn tồn tại những khuyết điểm, cụ thể là: “Sinh hoạt nội bộ Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị có tiến bộ về phong cách dân chủ và tập thể, song chưa thực hiện được thường xuyên tự phê bình và phê bình; lề lối sinh hoạt chưa khoa học, hiệu suất làm việc chưa cao, Trung ương chưa tổ chức tốt việc kiểm tra thực hiện các nghị quyết của Đảng và việc theo dõi, giúp đỡ các cấp uỷ địa phương; chưa giải quyết kịp thời và triệt để tình trạng mất đoàn kết ở một số cấp uỷ và đảng bộ trực thuộc Trung ương.”
Nếu so sánh với những nhận định, đánh giá về vấn đề đoàn kết trong Đảng được nêu ở từ Đại hội VI, việc Đại hội VII nhấn mạnh khuyết điểm “chưa giải quyết kịp thời và triệt để tình trạng mất đoàn kết ở một số cấp ủy và đảng bộ trực thuộc Trung ương” có thể coi là một nhận định, đánh giá mới.
Trên cơ sở những nhận định, đánh giá về thực trạng của vấn đề đoàn kết trong Đảng như trên, trong những phương hướng và nhiệm vụ lớn trong 5 năm tiếp theo, về nhiệm vụ quốc phòng và an ninh, Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh một điểm mới, đó là: “Bảo vệ sự đoàn kết trong Đảng, trong nhân dân; ngăn chặn có hiệu quả những âm mưu, hành động phá hoại, những cuộc bạo loạn cục bộ của kẻ địch.”
Trong bối cảnh hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng, các lực lượng thù địch tăng cường các hoạt động chống phá Đảng, chống phá chế độ, đẩy mạnh thực hiện âm mưu “Diễn biến hòa bình,” việc đặt ra vấn đề “bảo vệ sự đoàn kết trong Đảng, trong nhân dân” như trên là hết sức đúng đắn và cần thiết. Về nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, Báo cáo chính trị tại Đại hội VII xác định một trong những nội dung then chốt là “giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng,” cụ thể là:
Một là, giữ vững và thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng bằng những cơ chế và quy định cụ thể. Đấu tranh chống những quan điểm lệch lạc, những biểu hiện vi phạm dân chủ, lơi lỏng kỷ luật, mất đoàn kết đang xảy ra ở nhiều đảng bộ. Hai là, xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng, giữ vững các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng, bồi dưỡng tình đồng chí, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, tư tưởng bè phái, cục bộ địa phương.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng, Báo cáo tiếp tục nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nghiêm chỉnh thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết trong Đảng mà Người đã nêu trong Di chúc.
Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), vấn đề đoàn kết trong Đảng không được đề cập nhiều như trong Báo cáo chính trị tại Đại hội VI và Đại hội VII, và chỉ được đề cập trong phần Xây dựng Đảng. Báo cáo chính trị chỉ rõ thực trạng: “Không ít nơi nội bộ mất đoàn kết nghiêm trọng” và coi đây là một trong số những vấn đề lớn đang đặt ra trước Đảng.
Về các giải pháp khắc phục thực trạng trên, Báo cáo chính trị nêu một số quan điểm: Một là, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Hai là, đoàn kết thống nhất trong Đảng, trước hết là ở cơ quan lãnh đạo, có ý nghĩa quyết định sự thành công của cách mạng. Cán bộ, đảng viên giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng trên cơ sở đường lối chính trị, nguyên tắc tổ chức và tình thương yêu đồng chí. Tập trung sức giải quyết cho được tình trạng mất đoàn kết nghiêm trọng ở một số ngành và địa phương, phân tích đúng nguyên nhân, có biện pháp giải quyết phù hợp.
Ba là, phát hiện sớm hiện tượng mất đoàn kết, tập trung giải quyết và xử lý dứt điểm. Bốn là, không đồng nhất việc trong Đảng có những ý kiến khác nhau khi thảo luận, tranh luận trong tổ chức với tình trạng mất đoàn kết.
Trước sự phát triển của cách mạng, có nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn rất phức tạp, chưa sáng tỏ, trong Đảng cần có sự thảo luận, tranh luận. Mọi cán bộ, đảng viên phải biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến của nhau, thật sự vì chân lý, lẽ phải. Đồng thời không "đoàn kết" hình thức, một chiều, nể nang, không dám đấu tranh. Năm là, những nơi nội bộ mất đoàn kết, cán bộ chủ chốt có nhiều biểu hiện tiêu cực thì cấp trên phải chỉ đạo, giúp đỡ trực tiếp.
Nhìn chung, những quan điểm trên tiếp tục khẳng định các quan điểm về đoàn kết trong Đảng đã được nêu lên ở các Đại hội VI và VII. Trong đó, có một điểm mới, có ý nghĩa quan trọng, đó là quan điểm: “đoàn kết thống nhất trong Đảng, trước hết là ở cơ quan lãnh đạo, có ý nghĩa quyết định sự thành công của cách mạng.”
Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam (2001) dành một mức độ quan tâm đến vấn đề đoàn kết trong Đảng tương tự như trong Báo cáo chính trị tại Đại hội VIII. Vấn đề đoàn kết trong Đảng cũng chỉ được đề cập trong phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Về thực trạng xây dựng Đảng, báo cáo đánh giá: “Bên cạnh những ưu điểm, đang nổi lên một số mặt yếu kém và khuyết điểm, nhất là khuyết điểm về công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, chưa ngăn chặn và đẩy lùi được sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống. Một số tổ chức đảng ở các cấp chưa được chỉnh đốn; dân chủ bị vi phạm, kỷ luật, kỷ cương lỏng lẻo, nội bộ không đoàn kết.”
Trong các công tác cần tập trung làm tốt nhằm đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, trong đó liên quan trực tiếp đến vấn đề củng cố đoàn kết trong Đảng, Báo cáo chính trị nêu mấy quan điểm: Thứ nhất, kiện toàn tổ chức và cán bộ ở những cơ quan, đơn vị để xảy ra những biểu hiện không chấp hành nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước, làm việc trì trệ, độc đoán, chuyên quyền, kéo bè, kéo cánh, mất đoàn kết nội bộ. Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan kiểm tra đảng, thanh tra nhà nước và thanh tra nhân dân. Tiếp tục coi trọng và làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ.
Thứ hai, cấp ủy cấp trên tập trung chỉ đạo củng cố các đảng bộ, chi bộ yếu kém, kịp thời kiện toàn cấp uỷ và tăng cường cán bộ ở những nơi có nhiều khó khăn, nội bộ mất đoàn kết. Thứ ba, từng đảng bộ giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong tập thể lãnh đạo. Đối với những cấp uỷ, tổ chức đảng vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, cán bộ lãnh đạo độc đoán, chuyên quyền, kéo bè, kéo cánh, gây mất đoàn kết nội bộ, cấp ủy cấp trên phải chỉ đạo kiểm điểm làm rõ đúng sai, xử lý nghiêm những người có khuyết điểm, kiện toàn tổ chức cán bộ; nơi không có khả năng khắc phục khuyết điểm thì giải tán về tổ chức, lập tổ chức mới theo quy định của Điều lệ Đảng.
Trong các quan điểm nói trên, việc Báo cáo chính trị đề ra một số giải pháp như kiện toàn tổ chức và cán bộ ở những nơi để xảy ra hiện tượng mất đoàn kết nội bộ; củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan kiểm tra đảng, thanh tra nhà nước và thanh tra nhân dân; coi trọng và làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ; kịp thời kiện toàn cấp ủy và tăng cường cán bộ ở những nơi có nhiều khó khăn, nội bộ mất đoàn kết; cấp uỷ cấp trên phải chỉ đạo kiểm điểm làm rõ đúng sai, xử lý nghiêm những người có khuyết điểm, kiện toàn tổ chức cán bộ; nơi không có khả năng khắc phục khuyết điểm thì giải tán về tổ chức, lập tổ chức mới theo quy định của Điều lệ Đảng như trên là những điểm mới, thể hiện quyết tâm của Đảng trong công tác xây dựng, củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng.
So với Báo cáo Chính trị tại các Đại hội Đảng VI, VII, VIII và IX, Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam (2006) ít đề cập nhất đến vấn đề đoàn kết trong Đảng. Tuy nhiên, khi đề cập đến vấn đề đoàn kết trong Đảng, Báo cáo chính trị tại Đại hội X lại nêu lên hai quan điểm rất mới:
Một là, “xử lý kiên quyết, kịp thời, công khai những người tham nhũng, bất kể ở chức vụ nào, đương chức hay đã nghỉ hưu, tịch thu, sung công tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng; những người bao che cho tham nhũng, cố tình ngăn cản việc chống tham nhũng hoặc lợi dụng việc tố cáo tham nhũng để vu khống, làm hại người khác, gây mất đoàn kết nội bộ. Có cơ chế khuyến khích và bảo vệ những người tích cực đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Biểu dương và nhân rộng những gương cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.”
Hai là, “Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị, thực hiện luân chuyển cán bộ, khắc phục tình trạng khép kín, cục bộ về cán bộ. Tăng cường trách nhiệm của cán bộ, đảng viên là thủ trưởng cơ quan nhà nước. Cơ quan nào vi phạm chính sách, pháp luật, để xảy ra tình trạng tiêu cực, mất đoàn kết nội bộ thì người đứng đầu phải chịu trách nhiệm.”
Trong hai quan điểm trên, các giải pháp “xử lý kiên quyết, kịp thời, công khai những người tham nhũng, bất kể ở chức vụ nào, đương chức hay đã nghỉ hưu” và “người đứng đầu phải chịu trách nhiệm” ở những đơn vị để xảy ra tình trạng mất đoàn kết nội bộ là những bước đột phá trên cơ sở những quan điểm của Đại hội IX, thể hiện quyết tâm rất cao của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng. Chính ở những quan điểm, giải pháp này, chúng ta có thể thấy rõ sự vận dụng và cụ thể hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng nói chung, về gìn giữ, củng cố và tăng cường đoàn kết trong Đảng nói riêng.
Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam (2011) trở lại quan tâm mạnh mẽ đến vấn đề đoàn kết trong Đảng. Số lượng các cụm từ “đoàn kết,” các quan điểm về đoàn kết trong Đảng xuất hiện trong Báo cáo chính trị nhiều, cao hơn so với trong Báo cáo chính trị tại Đại hội VIII, IX và cao hơn hẳn so với trong Báo cáo chính trị tại Đại hội X, nội dung cũng phong phú hơn. Lần đầu tiên sau các Đại hội VIII, IX và X, vấn đề đoàn kết trong Đảng được đưa vào phần đánh giá kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ trước. Báo cáo chỉ rõ: “Sự đoàn kết, nhất trí ở không ít cấp uỷ chưa tốt,” và “nguyên tắc tập trung dân chủ còn bị vi phạm, ảnh hưởng đến sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.”
Trong phần trình bày mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ công tác trong nhiệm kỳ tới, Báo cáo chính trị đã nêu lên một số luận điểm quan trọng về đoàn kết trong Đảng, cụ thể là: Một là, đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hai là, công tác tư tưởng phải giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội. Ba là, tập trung chỉ đạo, củng cố những tổ chức đảng yếu kém; kịp thời kiện toàn cấp uỷ và tăng cường cán bộ ở nơi có nhiều khó khăn, nội bộ mất đoàn kết. Bốn là, tập trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước; việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, chế độ công tác, thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ gìn đoàn kết nội bộ...
Việc Đại hội XI nhấn mạnh quan điểm coi “đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc,” từ đó nhấn mạnh các giải pháp về chính trị tư tưởng, tổ chức, kiểm tra, giám sát… như trên là những điểm mới trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đoàn kết trong Đảng, và trong đó, chúng ta cũng có thể thấy ra những dấu ấn đậm nét của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đại hội XI là đại hội thể hiện quyết tâm rất cao của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Thực hiện Nghị quyết Đại hội, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã ra Nghị quyết số 12-NQ/TW về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay.
Tại Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XI), Ban Chấp hành Trung ương đã xem xét, thảo luận, cho ý kiến về kết quả kiểm điểm tự phê bình và phê bình tập thể và cá nhân Bộ Chính trị, Ban Bí thư theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI. Trong đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn và có ý nghĩa cực kỳ sâu sắc này, vấn đề đoàn kết trong Đảng đã giữ một vị trí hết sức quan trọng.
Thông báo Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã chỉ rõ, đoàn kết vừa là một tư tưởng chỉ đạo hoạt động tự phê bình và phê bình, vừa là một tiêu chí đánh giá ưu điểm và khuyết điểm của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, vừa là một sự cam kết của Bộ Chính trị, Ban Bí thư trước Ban Chấp hành Trung ương Đảng, vừa là một điểm tựa quan trọng để “lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân vượt qua mọi khó khăn, thách thức, phát huy những kết quả bước đầu quan trọng của việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, tạo được sự chuyển biến rõ rệt, khắc phục được những hạn chế yếu kém, xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, thực sự là Đảng cách mạng chân chính, gắn bó máu thịt với nhân dân.”
Trong bài phát biểu quan trọng bế mạc Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Tôi tin tưởng rằng, với thành công của Hội nghị lần này và sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng, trước hết là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; sự ủng hộ hưởng ứng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, nhất định chúng ta sẽ tổ chức thực hiện thành công các Nghị quyết, Kết luận của Hội nghị Trung ương lần này, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.”
Đoàn kết là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam và của Đảng Cộng sản Việt Nam, là một cuội nguồn làm nên sức mạnh vô địch của dân tộc và của Đảng. Tuy vậy, đoàn kết không tự nhiên mà có mà lại rất dễ bị suy yếu, bị mất đi. Ý thức sâu sắc thực tế này, trong toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng, đặc biệt là trên phương diện người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm đến vấn đề đoàn kết trong Đảng.
Người chỉ rõ tầm quan trọng của đoàn kết đối với sự tồn tại và phát triển của Đảng. Người cảnh báo những nguy cơ có thể dẫn đến sự mất đoàn kết, chia rẽ trong Đảng. Người thẳng thắn phê phán những cấp ủy Đảng và đảng viên để xảy ra tình trạng mất đoàn kết trong Đảng. Người phân tích sâu sắc những nguyên nhân và chỉ ra những giải pháp cụ thể để gìn giữ, củng cố, tăng cường sự đoàn kết trong Đảng. Người yêu cầu tất cả mọi đảng viên, từ Trung ương đến các chi bộ phải hiểu rõ, trân quý và bảo vệ sự đoàn kết trong Đảng như một phần máu thịt quý báu nhất của cơ thể mình.
Di chúc là sự kết tinh những tư tưởng và tình cảm lớn, những điều hạnh phúc và nỗi day dứt lớn, những mong muốn và kỳ vọng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước những vấn đề lớn của Đảng, của dân tộc và của nhân loại, trong đó, có vấn đề đoàn kết trong Đảng. Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, với tất cả lòng kính yêu mà toàn Đảng, toàn dân dành cho Người, Di chúc của Người đã đi vào thực tiễn sự nghiệp cách mạng của dân tộc một cách mạnh mẽ, sâu sắc.
Trong thời kỳ Đổi mới, trên phương diện xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết trong Đảng đã thể hiện giá trị một cách đậm nét.
Việc nghiên cứu Báo cáo chính trị tại các Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi bắt đầu Đổi mới đến nay cho thấy, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề đoàn kết trong Đảng luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam quan tâm, đặc biệt là ở những giai đoạn có ý quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của Đảng, của sự nghiệp cách mạng của dân tộc, khi phải đứng trước những thời cơ và cả những khó khăn, thách thức lớn.
Đó là một bằng chứng mạnh mẽ khẳng định giá trị thực tiễn Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh./.
Theo TTXVN